Vụ tham ô lớn ở Vifon

Thứ Tư, 22/07/2009, 11:22
Lợi dụng việc chuẩn bị cổ phần hóa công ty Vifon; lợi dụng việc chuyển nhượng vốn liên doanh với các đối tác nước ngoài để cổ phần hóa; ông Nguyễn Bi (nguyên TGĐ, CT HĐQT) và bà Nguyễn Thanh Huyền (nguyên kế toán trưởng, PGĐ) đã dùng thủ đoạn lập chứng từ giả thu, giả chi rồi chi tiền công quỹ để chiếm đoạt.

Ngày 21/7, theo chỉ đạo của Trung tướng Phạm Quý Ngọ, Tổng Cục trưởng Tổng cục Cảnh sát - Bộ Công an, Cục CSĐT tội phạm về tham nhũng bước đầu cho biết về tiến độ điều tra vụ tham ô và lợi dụng chức vụ quyền hạn trong thi hành công vụ xảy ra tại Công ty cổ phần Kỹ nghệ thực phẩm Việt Nam (Công ty Vifon).

Quý 2/2008, Tổng cục Cảnh sát nhận được đơn tố cáo của CBCNV Công ty Vifon, tố giác hành vi tham ô và lợi dụng chức quyền trong thi hành công vụ cũa lãnh đạo Ban giám đốc Công ty Vifon cũ. Để làm rõ nội dung tố cáo, Cục CSĐT tội phạm về tham nhũng tại TP HCM được giao nhiệm vụ xác minh và điều tra làm rõ để xử lý.

Qua xác minh, thu thập chứng cứ, ngày 31/10/2008, Phòng 8 - Cục CSĐT tội phạm về tham nhũng đã tiến hành khởi tố vụ án tham ô tài sản xảy ra tại Công ty Vifon.

Ngày 4/11/2008, Cục CSĐT tội phạm về tham nhũng ra lệnh bắt tạm giam theo điều 278 đối với bị can Nguyễn Thanh Huyền (54 tuổi), nguyên kế toán trưởng, nguyên Phó Giám đốc Công ty Vifon  về hành vi lập chứng từ thu, chi khống để chiếm đoạt tài sản của Công ty Vifon.

Qua điều tra đến ngày 30/3, Cục CSĐT tội phạm về tham nhũng đã ra quyết định khởi tố bổ sung tội "Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ"; và quyết định khởi tố bắt giam theo điều 281 đối với bị can Nguyễn Bi (60 tuổi), nguyên Chủ tịch HĐQT, Tổng Giám đốc Công ty Vifon.

Kết quả điều tra ban đầu cho thấy, năm 2003, Công ty Vifon đã tiến hành cổ phần hóa lần 1 vào ngày 31/12/2003, theo đó Nhà nước nắm giữ 51%, cổ đông của Công ty Vifon nắm giữ 49%. Ngày 7/3/2005, Bộ Công nghiệp cho phép bán tiếp 51% cổ phần sở hữu của Nhà nước, bằng 246.142 cổ phần để cổ phần hóa 100% Công ty Vifon.

Lợi dụng việc chuẩn bị cổ phần hóa; lợi dụng việc chuyển nhượng vốn liên doanh với các đối tác nước ngoài để cổ phần hóa theo chỉ đạo của Bộ Công nghiệp; ông Nguyễn Bi và bà Nguyễn Thanh Huyền đã dùng thủ đoạn lập chứng từ giả thu, giả chi rồi chi tiền công quỹ để chiếm đoạt. Ông Nguyễn Bi tự quyết định lấy 290.000 USD từ nguồn lợi nhuận liên doanh để chia thưởng trong Ban lãnh đạo công ty, bản thân Nguyễn Bi nhận 90.000 USD, Nguyễn Thanh Huyền nhận 65.000 USD.

Bên cạnh đó, Nguyễn Bi còn chỉ đạo lập chứng từ giả thu, giả chi huy động vốn lấy số tiền vốn của Nhà nước hơn 1,7 tỉ đồng để mua cho cá nhân 18.000 cổ phần khi cổ phần hóa lần 1; chỉ đạo lập chứng từ khống để lấy 80.000 USD và 2,283 tỷ đồng là tiền vốn của Công ty Vifon do Nguyễn Bi làm chủ tài khoản, chuyển qua tài khoản cho con rể sử dụng cá nhân.

Từ năm 2003 đến 2006 chỉ đạo cấp dưới lập chứng từ giả thu, giả chi để lấy tiền công ty chuyển thành tiền cá nhân của con gái số tiền 9,733 tỷ đồng, đã rút khỏi Công ty Vifon hơn 8,879 tỷ đồng… Nguyễn Thanh Huyền cũng lập chứng từ giả thu, giả chi, giả huy động vốn lấy tên chồng, con… để chuyển tiền quỹ của Công ty Vifon thành tiền cá nhân số tiền 6,026 tỷ đồng. Đã rút tiền khỏi Công ty Vifon 4,131 tỉ đồng.

Ngoài ra còn lập chứng từ khống để chiếm đoạt 400.000 USD do Công ty TNHH Xay xát lúa mì hỗ trợ trong liên doanh; lập chứng từ khống để chiếm đoạt 2,329 tỷ đồng là tiền mà Bộ Công nghiệp cho phép Công ty Vifon được trích từ lợi nhuận liên doanh lập quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi...

Mở rộng điều tra, Cục CSĐT tội phạm về tham nhũng còn phát hiện năm 2003, để chuẩn bị cho việc cổ phần hóa khi rút vốn liên doanh với một công ty nước ngoài, phía Công ty Vifon đã để cho đối tác liên doanh sử dụng thiết bị, máy móc trị giá 14,9 tỷ đồng mà không báo cáo trong bảng thống kê tài sản. Cho đến thời điểm này, Cục CSĐT tội phạm về tham nhũng đã thu hồi được 24 tỷ đồng là tiền từ liên doanh và hai bị can Nguyễn Bi, Nguyễn Thanh Huyền tự nguyện khắc phục.

Vụ việc đang được mở rộng điều tra, chúng tôi sẽ thông tin ngay khi cơ quan điều tra có kết luận cuối cùng về vụ án này

P.N.
.
.
.