Vĩnh Long: Nỗi lo quản lý rùa tai đỏ

Thứ Ba, 27/07/2010, 13:45
Sở NN&PTNT Vĩnh Long vừa có báo cáo gửi UBND tỉnh Vĩnh Long về tình trạng 40 tấn rùa tai đỏ, cũng như những khó khăn trong công tác quản lý lượng rùa này.

Số lượng rùa tai đỏ trên do Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu Thủy sản Cần Thơ nhập về cách đây không lâu, hiện đang được cách ly kiểm dịch tại Trung tâm Giống và Kỹ thuật tọa lạc ấp Mái Dầm, xã Phú Thành, huyện Trà Ôn.

Theo báo cáo của Sở NN&PTNT Vĩnh Long, đến ngày 18/7, số lượng rùa chết trên 7.600 con, số rùa còn sống gần 18.700 con và hiện số rùa tai đỏ này vẫn tiếp tục chết từ 10-17 con/ngày. Nguyên nhân được xác định là do loài rùa này chưa thích nghi với điều kiện khí hậu, nắng nóng ở Việt Nam. Mặt khác, do mật độ nuôi nhốt quá dày, nước trong ao bị ô nhiễm, dẫn đến thiếu oxy nên rùa dễ bị chết.

Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản đã yêu cầu doanh nghiệp phải đưa đàn rùa tai đỏ này ra khỏi lãnh thổ Việt Nam, chậm nhất là hết quý III-2010, bởi số rùa này đã hết thời gian nuôi cách ly, nhưng vẫn được nuôi nhốt tại ấp Mái Dầm, xã Phú Thành, huyện Trà Ôn. Hiện công ty nhập số rùa này vẫn chưa có kế hoạch tái xuất đàn rùa trên.

Lực lượng Cảnh sát môi trường Công an Vĩnh Long đã kết hợp với lực lượng Cảnh sát môi trường Công an TP Cần Thơ làm việc với Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu Thủy sản Cần Thơ và yêu cầu phải bảo quản thật tốt, không để cho bất kỳ cá thể rùa nào thoát ra ngoài môi trường tự nhiên. Nhưng điều khó khăn trong công tác quản lý ở địa phương hiện nay là nơi nuôi cách ly số rùa tai đỏ này không đảm bảo yêu cầu kỹ thuật, nên nguy cơ phát tán ra ngoài môi trường tự nhiên là rất lớn.

Theo các nhà khoa học, nguy cơ mà rùa tai đỏ gây ra là cạnh tranh thức ăn, giao phối với rùa bản địa, dẫn đến lấn át, ức chế hoặc tiêu diệt các loài sinh vật bản địa, đưa đến phá vỡ cân bằng sinh thái. Một số ý kiến nghiên cứu còn cho thấy tác hại của rùa tai đỏ ngang bằng với ốc bươu vàng, chuột hải ly, cá hoàng đế, cây mai dương… Chưa kể rùa tai đỏ còn mang vi khuẩn Salmonella gây hại đối với con người

N.T.
.
.
.