Nâng giá trị gia tăng hàng xuất khẩu để hạn chế các vụ kiện phòng vệ thương mại

Thứ Bảy, 10/08/2019, 07:20
Tần suất các vụ kiện phòng vệ thương mại (PVTM) với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam hiện nay khá cao bởi xuất khẩu hàng hoá tăng trưởng càng nhiều thì biện pháp PVTM càng tăng. 

Thời gian tới, dự báo mức độ kiện PVTM còn trở nên căng thẳng hơn khi kinh tế Việt Nam hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới.

Trung bình 1 tháng 1 vụ kiện phòng vệ thương mại

Ông Lê Triệu Dũng, Cục trưởng Cục Phòng vệ thương mại (Bộ Công Thương) cho biết, xu thế bảo hộ trên thế giới đang gia tăng, đặc biệt là việc sử dụng các biện pháp bảo hộ như một công cụ để ngăn cản hàng nhập khẩu. 

Chính sách bảo hộ gia tăng sẽ dẫn tới các yêu cầu khắt khe hơn với hàng hóa xuất khẩu của ta, đặc biệt là về quy tắc xuất xứ, trong đó có việc một số nước mở rộng biến thể của yêu cầu “từ sợi trở đi” hoặc “từ vải trở đi” đối với dệt may sang các sản phẩm khác như sắt thép, nhôm… Nếu không đáp ứng được các yêu cầu này thì hàng hóa của ta rất dễ bị kết luận là đang “lẩn tránh” thuế, lẩn tránh biện pháp PVTM.

Theo Cục Phòng vệ thương mại, trong 7 tháng đầu năm 2019 đã tiến hành điều tra chống bán phá giá để bảo vệ sản xuất trong nước 4 vụ việc, thẩm định hồ sơ 3 vụ việc và rà soát cuối kỳ 1 vụ việc, theo dõi hiệu quả áp dụng biện pháp chống bán phá giá 2 vụ việc. Các vụ việc này tập trung vào ngành hàng như thép, tôn màu, nhôm, ván gỗ, đường lỏng… 

Bộ Công Thương cũng phối hợp với các hiệp hội, ngành hàng xem xét sử dụng biện pháp PVTM đối với một số sản phẩm sợi DTY, ống thép, bột ngọt… Xem xét miễn trừ áp dụng biện pháp chống bán phá giá với một số hàng hoá trong nước chưa sản xuất được nhằm tạo thuận lợi cho doanh nghiệp (DN). 

Nếu không đáp ứng được các yêu cầu về xuất xứ thì hàng hóa của Việt Nam rất dễ bị kết luận là đang “lẩn tránh” thuế, lẩn tránh biện pháp PVTM. Ảnh minh họa Internet.

Theo đánh giá, việc áp dụng các biện pháp PVTM góp phần bảo vệ việc làm cho trên 100.000 người lao động, khuyến khích sản xuất trong nước... Những ngành sản xuất đang được bảo vệ bởi các biện pháp PVTM ước tính đóng góp khoảng 6,3% GDP của cả nước, tăng nguồn thu cho ngân sách, giảm nhập khẩu ồ ạt nhiều mặt hàng giúp nhiều DN thoát khỏi thua lỗ, từng bước ổn định sản xuất. Tuy nhiên, 7 tháng đầu năm nay, tần suất các vụ kiện PVTM với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam vẫn duy trì ở mức độ cao (trung bình 1 vụ/tháng). 

Hiện nay, Bộ Công Thương đang tiến hành xử lý 7 vụ việc PVTM (5 vụ việc chống bán phá giá, 2 vụ việc trợ cấp) khởi xướng điều tra với hàng xuất khẩu của Việt Nam. Trong 7 vụ việc khởi xướng điều tra mới, thị trường Ấn Độ dẫn đầu với 4 vụ việc, Hoa Kỳ 2 vụ việc, Malaysia 1 vụ việc.

Bên cạnh đó, Bộ Công Thương cũng đang tiếp tục xử lý 7 vụ việc khởi xướng từ năm 2018; 4 vụ việc rà soát biện pháp PVTM đã áp dụng, trong đó có những vụ việc có kim ngạch xuất khẩu lớn như cá tra, tôm. 

Đối với các vụ việc giải quyết tranh chấp tại WTO, trong 7 tháng đầu năm, Bộ Công Thương đang xử lý 3 vụ việc, trong đó 1 vụ đã kết thúc với kết quả tích cực (Indonesia hủy bỏ biện pháp áp dụng với tôn lạnh); 2 vụ việc đang trong quá trình tham vấn (chương trình thanh tra cá da trơn của Hoa Kỳ và phương pháp tính biên độ trong vụ việc Hoa Kỳ rà soát chống bán phá giá đối với cá tra).

Nâng cao giá trị gia tăng cho hàng xuất khẩu của Việt Nam

Tuy nhiên, ông Dũng cũng cho rằng, điểm yếu lớn nhất hiện nay trong quá trình PVTM là vấn đề “nhận thức của doanh nghiệp”. Vấn đề làm giảm hiệu quả của việc ứng phó với các vụ kiện của nước ngoài là sự thiếu hợp tác một số DN xuất khẩu, dẫn đến việc toàn bộ các DN khác của Việt Nam bị áp mức thuế cao. 

Nhiều DN do lo ngại về nguồn lực tham gia phối hợp, trả lời bản câu hỏi của nước ngoài nên đã bị áp thuế cao. Trong khi đó, khối các DN FDI thường có chiến lược ứng phó bài bản và sự hợp tác đầy đủ với cơ quan điều tra nước ngoài hơn.

Ông Tạ Hoàng Linh, Vụ Thị trường châu Âu - châu Mỹ cho rằng, rủi ro áp lực PVTM rất cao vì xung đột thương mại. Việt Nam đã ký FTA với nhiều nước nên xu hướng nhiều DN ở các nước sẽ lợi dụng các FTA này để gian lận xuất xứ và lẩn tránh. 

Bên cạnh đó, trong 6 tháng đầu năm nay, xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường châu Âu và châu Mỹ giảm một số thị trường nhưng vẫn tăng 14,2%. Ta đang ở trong nhóm nước đang phát triển nên được miễn trừ tự vệ, nhưng với đà tăng xuất khẩu như vậy, Việt Nam có thể ở trong danh sách bị áp dụng biện pháp PVTM và không được miễn trừ tự vệ. Do đó cần triển khai tốt Đề án chống lẩn tránh biện pháp PVTM và gian lận xuất xứ.

Để giảm thiểu khả năng bị áp dụng biện pháp PVTM, ông Lê Triệu Dũng cho rằng, cần có một chiến lược tổng thể, dài hạn trong việc phát triển chuỗi sản xuất, nâng cao giá trị gia tăng cho hàng xuất khẩu của Việt Nam. 

Bên cạnh đó, ngay cả khi Việt Nam phát triển được chuỗi sản xuất tại Việt Nam (ví dụ như đối với thép, nhôm), nếu xuất khẩu của Việt Nam sang tăng nhanh, đột biến thì ngoài biện pháp chống lẩn tránh, không loại trừ khả năng nước nhập khẩu sẽ điều tra chống bán phá giá và trợ cấp với sản phẩm của Việt Nam như đã làm trước đó với một số nước khác.

“Do đó, bên cạnh việc chú trọng phát triển theo chiều sâu (tăng giá trị gia tăng trong nước), Việt Nam cũng cần theo dõi kỹ để cảnh báo sớm nếu như xuất khẩu của ta sang một số thị trường gia tăng nhanh đột biến. Để thực hiện hiệu quả việc cảnh báo này, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Công Thương và các bộ, ngành liên quan, đặc biệt là Tổng cục Hải quan (Bộ Tài chính)...”, ông Dũng nói.

Bên cạnh đó, DN cũng cần thận trọng khi xem xét mở rộng đầu tư, đặc biệt để sản xuất phục vụ xuất khẩu các mặt hàng đã bị nước nhập khẩu áp dụng biện pháp PVTM với nước thứ 3.

Khi phát hiện xuất khẩu các mặt hàng liên quan từ Việt Nam tăng nhanh, nước nhập khẩu có thể tiếp cận theo hướng điều tra chống lẩn tránh, độc lập với điều tra về xuất xứ. Hàng hóa có thể đáp ứng yêu cầu về xuất xứ nhưng vẫn bị kết luận là l ẩn tránh và bị áp thuế cao.

Bộ trưởng Công Thương Trần Tuấn Anh cho rằng, những biện pháp PVTM gắn chặt với hoạt động hội nhập, bảo vệ lợi ích cho sản xuất trong nước, theo đó, hội nhập thành công được đến mức độ nào phụ thuộc vào điều này. 

Bộ Công Thương tiếp tục chủ động theo dõi diễn biến các xung đột và tranh chấp thương mại, từ đó cập nhật kịp thời và dự báo những vấn đề “nóng” liên quan đến PVTM để cảnh báo sớm cho DN. Đồng thời, xây dựng kế hoạch tăng cường hợp tác với các đối tác tại các quốc gia, phòng tránh tranh chấp thương mại cho cộng đồng DN.

Lưu Hiệp
.
.
.