Mỗi năm, phải trả nợ hơn 150 nghìn tỷ

Thứ Ba, 22/03/2016, 17:27
Đây là con số được Bộ Tài chính công bố tại cuộc họp báo chuyên đề về chính sách cho vay lại nguồn vốn ODA của Chính phủ tổ chức sáng 22-3 tại Hà Nội.


Trong khi câu chuyện số liệu nợ công đang nóng trước con số dư nợ Chính phủ đã vượt trần cho phép 0,3%GDP, thì câu chuyện trả nợ cũng được nhiều người quan tâm vì nó đụng đến túi tiền ngân sách vốn đã eo hẹp do hụt thu, bội chi. 

Ông Trương Hùng Long- Cục trưởng Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại (Bộ Tài chính) cho biết về nghĩa vụ trả nợ, hiện khoản vay dài nhất của Việt Nam là tới năm 2055, bình quân các khoản nợ phải trả hiện nay khoảng 12 năm. Thời điểm Việt Nam phải trả nợ nhiều là từ năm 2022-2025.

Hiện, Chính phủ đang làm việc với WB để có lộ trình trả nợ, hạn chế tối đa tác động trả nợ nhanh tới ngân sách nhà nước và chủ đầu tư sử dụng vốn ODA. Trước mắt, theo đại diện Bộ Tài chính, ngân sách nhà nước đang phải tập trung xử lý những khoản vay ngắn hạn trong nước. 

Đặc biệt, những khoản Chính phủ vay trong giai đoạn 2011-2013, với 70% vốn huy động thông qua tín phiếu, trái phiếu kỳ hạn 3-5 năm, nay tới kỳ hạn phải trả. Trong giai đoạn hiện nay, mỗi năm Chính phủ dành khoảng 155.000 tỷ đồng để trả nợ.

Phải tăng tính công khai minh bạch trong quản lý, sử dụng nguồn vốn vay công

Phân tích cụ thể, Bộ Tài chính cho biết trong giai đoạn 10 năm trở lại đây (2005 - 2015), tổng số vốn ODA, vay ưu đãi được ký kết khoảng 45 tỷ USD, cơ cấu sử dụng trong nước được phân chia như sau: 1/3 cho ngân sách Trung ương để cấp phát cho các chương trình, dự án thuộc nhiệm vụ chi của Ngân sách trung ương; 1/3 dành cho các chương trình, dự án của địa phương; và 1/3 để cho vay lại các dự án trọng điểm của nhà nước. 

Trong tổng số vốn dành cho chương trình, dự án của địa phương, tỷ trọng vốn cấp phát chiếm 92,2%; cho vay lại chỉ chiếm 7,8%. Đối với phần vốn để cho vay lại các dự án đầu tư trọng điểm của nhà nước, cho đến nay hầu hết Chính phủ vẫn chịu toàn bộ các rủi ro tín dụng. Cơ quan cho vay lại chỉ có vai trò là ngân hàng phục vụ và hưởng phí dịch vụ.  

Do cơ chế sử dụng vốn chủ yếu dựa vào cấp phát từ ngân sách nhà nước và Nhà nước chịu rủi ro toàn bộ, nên việc sử dụng vốn vay nảy sinh nhiều vấn đề như đầu tư dàn trải, chưa thực hiệu quả; tình trạng chậm tiến độ, tăng tổng mức đầu tư còn không ít. 

Tính hợp lý trong phân bổ nguồn vốn giữa các địa bàn còn bất cập. Mức độ tiếp cận nguồn vốn của các địa phương miền núi, khó khăn thường hạn chế hơn các tỉnh, thành phố lớn. 

Việc duy trì cơ chế mang tính bao cấp từ phía Trung ương trong thời gian dài đã tạo ra tâm lý ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước, chưa thực sự khuyến khích các chủ đầu sử dụng vốn tiết kiệm, có hiệu quả... 

Trong khi thực tế, từ năm 2010, Việt Nam đã trở thành nước thu nhập trung bình, nên mức độ ưu đãi của các khoản cho vay của các đối tác phát triển dành cho Việt Nam đang giảm rõ rệt.

 Giai đoạn trước năm 2010, thời hạn vay bình quân khoảng từ 30-40 năm, với chi phí vay khoảng 0,7-0,8%/năm, bao gồm thời gian ân hạn. Giai đoạn từ 2011-2015, thời hạn vay bình quân chỉ còn từ 10-25 năm, tùy theo từng đối tác và từng loại vay; với chi phí vay khoảng 2%/năm trở lên. 

Nhiều nhà tài trợ đã chuyển từ nguồn vốn ODA sang nguồn vốn vay hỗn hợp. Đáng chú ý, dự kiến đến tháng 7-2017 Việt Nam có thể không còn được vay theo điều kiện ODA, phải chuyển chủ yếu sang sử dụng nguồn vay ưu đãi và tiến tới vay theo điều kiện thị trường.

 Nguồn vốn ODA đã vay chuyển sang điều khoản trả nợ nhanh gấp đôi hoặc tăng lãi suất lên từ 2% - 3,5%. Cùng với kết thúc cho vay ODA (tốt nghiệp ODA), Việt Nam sẽ phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ nhanh (như khoản vay 20 năm, sẽ phải trả trong 10 năm), hoặc tăng chi phí vốn (lãi suất từ 2% lên 3%). 

“Thời gian từ nay tới tháng 7-2017, chúng ta phải tranh thủ tối đa ngồn vốn ODA còn lại để đầu tư cho hạ tầng. Đồng thời chuyển đổi cơ chế, để khi tốt nghiệp ODA sẽ sẵn sàng bước sang giai đoạn mới”, ông Long nói.

Cơ quan chức năng dự tính chia 5 nhóm địa phương với tỷ lệ cho vay lại và cấp phát rõ ràng. Cụ thể, sẽ có 3 nhóm các địa phương còn khó khăn, phải nhận trợ cấp của Nhà nước và 2 nhóm các nơi có thể điều tiết lại ngân sách Nhà nước. 

Các tỉnh khó khăn nhất sẽ được áp dụng tỷ lệ vay lại vốn ODA chỉ là 10% và vẫn cấp phát khoảng 90%. Một số địa phương khác "khá hơn" sẽ có tỷ lệ vay lại khoảng 20%-30%. 

Với địa phương dồi dào hơn thì có thể áp dụng cơ chế 50-50, tức là Nhà nước hỗ trợ 50%, địa phương tự vay lại 50%. Riêng với Hà Nội, Sài Gòn dự kiến sẽ áp dụng tỷ lệ 80-20, đồng nghĩa Nhà nước hỗ trợ 20%, địa phương tự vay lại 80%.

“Nhà nước nên tập trung nguồn vốn ODA vào những lĩnh vực then chốt, các dự án công trình trọng điểm, thu hẹp phạm vi cấp phát từ Ngân sách nhà nước và giảm tính bao cấp của nhà nước trong cơ chế sử dụng vốn vay nước ngoài.

 Đối với các địa phương có tiềm lực tài chính khá, và đặc biệt các địa phương có khả năng điều tiết ngân sách về trung ương thì phải thì phải chia sẻ gánh nặng nợ với ngân sách trung ương thông qua cơ chế cho vay lại Chính quyền địa phương. 

Đối với các lĩnh vực, các dự án có khả năng hoàn vốn và có khả năng huy động từ các thành phần kinh tế thì phải chuyển dần sang cơ chế thị trường thông qua cơ chế cho vay chịu rủi ro. Về lâu dài sẽ thực hiện đúng theo cơ chế thị trường. 

Đồng thời, phải tăng tính công khai minh bạch trong quản lý, sử dụng nguồn vốn vay công; tăng tính trách nhiệm của tất cả các chủ thể liên quan đến quản lý và sử dụng nguồn vốn vay”, Bộ Tài chính khẳng định.

Lệ Thúy
.
.
.