Xét xử vụ án buôn lậu qua cửa khẩu Quy Nhơn:

Án đã tuyên câu hỏi vẫn còn

Thứ Tư, 10/11/2004, 00:22

Không thực thi chỉ thị của cấp trên, bật đèn xanh cho buôn lậu, nguyên Cục trưởng Hải quan Bình Định và đường dây “phù phép” 12.000 bộ linh kiện xe máy qua cửa khẩu Quy Nhơn đã phải ra hầu toà. Tuy nhiên, dư luận cho rằng bản án dành cho Chính và đồng bọn vẫn chưa tương xứng với tội trạng.

Trong số 13 bị cáo, có 4 đối tượng cộm cán nhất gồm nguyên Cục trưởng Cục Hải quan Ngô Hữu Chính, nguyên Giám đốc Công ty Sản xuất - Xuất nhập khẩu tiểu thủ công nghiệp miền Trung (Cencoopimex) Trương Đình Xuân, nguyên Giám đốc Công ty Sản xuất - Xuất nhập khẩu công nghiệp Phú Yên (SX-XNKCN) Trần Quang Bình và nguyên Chi cục trưởng Hải quan cửa khẩu Cảng Quy Nhơn Trần Điền.

Vụ án có thể tóm tắt như sau: Ngày 11/10/2002, Bộ Thương mại cấp giấy phép số 4148/TM-ĐT cho phép Công ty SX-XNKCN Phú Yên nhập khẩu 22.000 bộ linh kiện xe gắn máy hai bánh để lắp ráp và tiêu thụ. Khi biết doanh nghiệp này đã nhập 10.000 bộ linh kiện, còn lại chỉ tiêu 12.000 bộ, Cục trưởng Cục Hải quan Bình Định Ngô Hữu Chính gọi điện thoại để "môi giới" và trực tiếp đưa Trương Đình Xuân - Giám đốc Cencoopimex vào thị xã Tuy Hòa để bàn thảo với Trần Quang Bình - Giám đốc Công ty SX-XNKCN Phú Yên.

Từ lô hàng nhập lậu, Cencoopimex đã tổ chức lắp ráp 853 xe máy, nhưng để tiêu thụ hợp pháp, Cencoopimex đã đề nghị Công ty SX-XNKCN Phú Yên lập thủ tục đăng kiểm chất lượng rồi tung ra thị trường 270 xe, thu hơn 2 tỷ đồng.

Tại hai cuộc họp ngày 4 và 7/1/2003, Ngô Hữu Chính và Trần Điền báo cáo với Bí thư Tỉnh ủy và Chủ tịch UBND tỉnh Bình Định rằng lô hàng nhập khẩu đúng trình tự thủ tục, đúng danh mục tờ khai nhập khẩu. Đồng chí Bí thư và Chủ tịch UBND tỉnh Bình Định yêu cầu kiểm tra lại vụ việc và báo cáo bằng văn bản nhưng Cục trưởng Cục Hải quan Bình Định không thực thi.

Tại tòa sơ thẩm, bị cáo Trương Đình Xuân khai báo quanh co, không nhận trách nhiệm pháp lý về lô hàng nhập khẩu thừa so với hợp đồng có tổng trị giá gần 21 tỷ đồng. Xuân phản bác rằng Cencoopimex không hề mua lại chỉ tiêu nhập khẩu lô hàng mà chỉ cung ứng vốn và đảm nhận tiêu thụ sau khi Công ty SX-XNKCN Phú Yên lắp ráp hoàn chỉnh sản phẩm xe máy nguyên chiếc. Chính vì vậy, ngày 8/11/2002, Công ty SX-XNKCN Phú Yên mới ký kết hợp đồng thuê kho của Cencoopimex để tập kết hàng hóa.

Ngược lại, bị cáo Trần Quang Bình cho rằng Công ty SX-XNKCN Phú Yên tham gia phi vụ này chỉ là hình thức, nhằm thực hiện trọn vẹn cam kết "chuyển nhượng hạn ngạch", còn thực chất lô hàng nhập khẩu là của Cencoopimex, nên Trương Đình Xuân chủ động thỏa thuận hợp đồng với đối tác nước ngoài, tổ chức tiếp nhận hàng đưa về kho của doanh nghiệp ở Bình Định, dàn xếp khi bị hải quan cửa khẩu phát hiện lô hàng thừa và chỉ đạo cất giấu lô hàng cho đến khi bị phát hiện…

Đại diện VKSND tỉnh Bình Định đã chứng minh tại thời điểm ký kết hợp đồng thuê kho, Xuân đang ở Trung Quốc. Thực chất, bản hợp đồng thuê kho và cả hợp đồng mua bán xe máy nguyên chiếc chỉ là tài liệu hợp thức hóa, chính Xuân là bị cáo đầu vụ trong nhóm tội "Buôn lậu" và là chủ sở hữu lô hàng nhập lậu. Còn bị cáo Trần Điền vẫn khẳng định khi phát hiện lô hàng nhập lậu đã báo cáo cho Cục trưởng Cục Hải quan Bình Định, nhưng ông Ngô Hữu Chính chỉ đạo kiểm hóa chiếu lệ để thông quan lô hàng. Trong tổ kiểm hóa lô hàng lúc đó có Ngô Lê Phương và Ngô Hữu Tuấn là con trai và cháu ruột của ông Cục trưởng và cũng là bị cáo trong vụ án này.

Sau 6 ngày xét xử, chiều 7/11, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định đã tuyên phạt Trương Đình Xuân 9 năm tù, Trần Quang Bình 8 năm tù về tội "Buôn lậu"; thay đổi tội danh "Buôn lậu" sang tội "Che giấu tội phạm" để xử phạt bị cáo Lê Văn Thành 4 năm tù, cùng tội danh này bị cáo Đào Minh Tùng lãnh án 12 tháng tù;  Ngô Hữu Chính 3 năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội "Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng"; trong nhóm tội danh "Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ" Trần Điền bị xử phạt 4 năm tù, Trần Phi Long 3 năm tù, 6 bị cáo còn lại lãnh án từ 12 đến 24 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo.

Dư luận ở Bình Định cho rằng hình phạt mà tòa sơ thẩm phán quyết vẫn còn nương nhẹ. Án tù đối với bị cáo Trương Đình Xuân dưới mức đề nghị của công tố, trong khi vai trò bị cáo chủ chốt trong vụ án này kéo theo hàng loạt bị cáo khác phải vào vòng tố tụng. Đối với Ngô Hữu Chính, Cơ quan CSĐT - Bộ Công an đề nghị truy tố về tội "Buôn lậu", nhưng Viện KSND Tối cao đã thay đổi tội danh "Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng", trong khi ông Chính trực tiếp "môi giới" để Trần Quang Bình "chuyển nhượng hạn ngạch" cho Trương Đình Xuân. Và qua thẩm vấn tại tòa có nhiều dấu hiệu cho thấy bị cáo Chính sau khi biết rõ lô hàng nhập lậu số lượng lớn, nhưng vẫn chỉ đạo cho thông quan

Phạm Thế Hữu Toàn
.
.
.