Mất hàng chục tỷ đồng vì màn kịch... góp vốn

Chủ Nhật, 23/07/2017, 12:38
Trong bốn ngày từ 18 đến 21-7, TAND cấp cao tại Hà Nội đã mở phiên toà hình sự phúc thẩm xét xử vụ chiếm đoạt tài sản chiếm đoạt tài sản tại Công ty cổ phần Lào-Việt.

Trong quá trình điều hành doanh nghiệp, ông Thái Lương Trí (77 tuổi, trú ở phường Quang Trung, TP Vinh, Nghệ An), Giám đốc Công ty Nghệ An, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Lào-Việt kêu gọi người khác góp vốn khai thác khoáng sản để chiếm đoạt của họ hàng chục tỷ đồng. Trong bốn ngày từ 18 đến 21-7, TAND cấp cao tại Hà Nội đã mở phiên toà hình sự phúc thẩm xét xử vụ án này.

Theo hồ sơ vụ án, năm 2004, Công ty TNHH Thái Dương Nghệ An (viết tắt là Công ty Nghệ An) do ông Trí làm Giám đốc ký hợp đồng liên kết với Công ty Thảo Oong Khăm do Oong Khăm Sivilay (quốc tịch Lào) làm Giám đốc để thăm dò, khai thác khoáng sản tại tỉnh Hủa Phăn (Lào).

Để có cơ sở được cấp chứng nhận đầu tư ra nước ngoài, tháng 6-2006, ông Trí sử dụng một hợp đồng liên doanh giả chữ ký của Oong Khăm Sivilay bổ sung vào hồ sơ xin cấp phép đầu tư sang Lào. Từ hồ sơ có chữ ký giả này, Bộ Kế hoạch & Đầu tư đã cấp phép đầu tư ra nước ngoài cho Công ty Nghệ An.

Khi Công ty cổ phần Khoáng sản Lào-Việt (viết tắt là Công ty cổ phần Lào-Việt) thành lập, ông Trí giao cho ông Dương Minh Hải (59 tuổi, trú tại phường Thanh Lương, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội), Phó Giám đốc Công ty cổ phần Lào-Việt sang Lào để tiếp tục hoàn thiện thủ tục đầu tư thăm dò, khai thác khoáng sản.

Bị cáo Trí (hàng trên bên trái) và bị cáo Hải tại phiên toà phúc thẩm.

Tháng 4-2008, ông Hải đưa cho ông Trí con dấu mang tên Công ty cổ phần Lào-Việt. Nhưng điều đáng nói là con dấu này không phải do cơ quan chức năng Lào cấp. Ông Trí biết rõ đó là con dấu bất hợp pháp nhưng vẫn thường xuyên sử dụng để đóng vào các văn bản, giấy tờ liên quan.

Trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh với Công ty Thảo Oong Khăm về việc liên doanh thăm dò khai thác, chế biến quặng, năm 2005, Công ty Nghệ An do ông Trí làm Giám đốc đã ký kết với Công ty cổ phần Dịch vụ và dạy nghề Thái Dương Hà Nội (viết tắt là Công ty Hà Nội) do ông Đoàn Văn Huấn là Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc và Công ty TNHH Thiên Phú (viết tắt là Công ty Thiên Phú) do bà Chu Thị Thành là Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc để cùng hợp tác, liên doanh với Công ty Thảo Oong Khăm thực hiện dự án đầu tư thăm dò, khai thác quặng tại Lào.

Sau khi ký kết hợp đồng, Công ty Hà Nội và Công ty Thiên Phú đã góp vốn hơn 21 tỷ đồng, tương ứng với 18% và 10% cổ phần.

Từ ngày 8-1-2008 (thời điểm 4 doanh nghiệp trên ký hợp đồng góp vốn) đã ra đời Công ty Lào-Việt. Tại Công ty Lào-Việt, ông Trí giữ chức vụ Chủ tịch HĐQT; ông Huấn giữ chức vụ Tổng Giám đốc. Bà Thành và Oong Khăm Sivilay là hai Phó Tổng Giám đốc.

Theo đó, các bên phải chuyển từ hợp tác kinh doanh sang công ty cổ phần để trực tiếp thực hiện dự án và cử đại diện tham gia vào Hội đồng quản trị của doanh nghiệp mới thành lập. Tài sản mà 4 doanh nghiệp liên quan góp vào cũng như việc thực hiện dự án đều thuộc trách nhiệm và phạm vi quản lý của Công ty Lào- Việt.

Vậy nhưng sau khi Công ty Lào-Việt được phía Lào cấp phép thăm dò, khai thác khoáng sản, ông Trí thấy nếu chia lợi tức theo tỷ lệ vốn góp giữa các cổ đông thì tiền mà ông ta thu về sẽ ít nên nảy sinh ý định chiếm đoạt toàn bộ cổ phần 21 tỷ đồng của hai cổ đông sáng lập là ông Huấn và bà Thành được cử làm đại diện tại Công ty cổ phần Lào-Việt bằng cách tự loại bỏ tên hai cổ đông này.

Để loại bỏ toàn bộ vai trò, tư cách cổ đông, quyền sở hữu cổ phần của ông Huấn và bà Thành, ông Trí và ông Hải đã soạn thảo điều lệ Công ty Liên doanh khoáng sản Lào-Việt.

Tại công ty này, ông Trí đứng tên làm Giám đốc. Thái Lương Thứ (con trai ông Trí), ông Hải và Oong Khăm Sivilay làm Phó Giám đốc.

Thực hiện hành vi này, ông Trí đã tự loại bỏ tên hai cổ đông góp vốn 21 tỷ đồng vào Công ty cổ phần Lào-Việt. Biết rõ hành vi của ông Trí là vi phạm pháp luật, nhưng ông Hải vẫn tích cực giúp sức cho ông Trí thực hiện tội phạm.

Với các hành vi gây ra, ngày 20-5-2016, TAND TP Hà Nội mở phiên toà sơ thẩm xét xử vụ án này và tuyên phạt bị cáo Trí 18 năm tù và bị cáo Hải 15 năm tù về hai tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức.

Ngoài hình phạt tù, Toà án cấp sơ thẩm còn buộc hai bị cáo phải bồi thường số tiền đã chiếm đoạt cho bị hại theo quy định của pháp luật. Sau phiên toà sơ thẩm, bị cáo Trí và bị cáo Hải làm đơn kháng cáo kêu oan.

Quá trình xét xử phúc thẩm, hai bị cáo Trí và Hải vẫn không thừa nhận hành vi phạm tội. Sau khi nghị án, HĐXX phúc thẩm quyết định huỷ toàn bộ bản án sơ thẩm.

Ở tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức, HĐXX phúc thẩm yêu cầu Viện Kiểm sát phải làm rõ trong hai con dấu mà bị cáo Trí sử dụng thì con dấu nào là giả, con dấu nào là thật? 

Ai là người trực tiếp đi khắc dấu và thời điểm khắc con dấu đã có giấy phép sử dụng hay chưa? Bởi lời khai của người được các bị cáo thuê khắc con dấu được xác định là giả có nhiều điểm mâu thuẫn.

Ở tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản mà Tòa án sơ thẩm quy kết đối với bị cáo Trí và bị cáo Hải, HĐXX phúc thẩm yêu cầu cần phải làm rõ thêm một số tình tiết xoay quanh việc cấp giấy phép đầu tư ra nước ngoài, việc góp vốn giữa các cổ đông, căn cứ xác định thiệt hại thực tế, giá trị pháp lý của các giấy phép khai thác mỏ mà phía Lào cấp cho bị cáo Trí cũng như những người liên quan. Theo HĐXX phúc thẩm, những tình tiết đặt ra ở phiên tòa phúc thẩm thứ hai này, cấp phúc thẩm không thể làm rõ ngay tại phiên tòa.

Nguyễn Hưng
.
.
.