Ly kỳ vụ ly hôn vì bị tráo con

Thứ Năm, 15/03/2012, 19:50
Để níu kéo chồng đang sinh sống ở bên Nhật, sau khi hư thai, bà B. đi xin đứa con nuôi rồi dối là con mới đẻ. Sau khi biết được bị vợ lừa dối, ông T. đã nộp đơn xin ly hôn.

Ngày 13/3, Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại TP Hồ Chí Minh đã mở phiên tòa xét xử vụ ly hôn giữa nguyên đơn là ông N.V.T. (56 tuổi, Việt kiều Nhật) và bà N.T.N.B. (52 tuổi, ngụ Đồng Nai) do có đơn kháng cáo của bà B..

Theo đơn khởi kiện của ông T.: Ông và bà B. tự nguyện kết hôn với nhau và được UBND tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận kết hôn vào năm 2004. Quá trình chung sống, vợ chồng hạnh phúc nhưng đến tháng 5/2009, bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do bà B. nghi ngờ ông có quan hệ bên ngoài. Sau đó, do biết được việc bà B. lừa dối ông trong việc sinh con cùng nhiều mâu thuẫn khác nên cuộc sống gia đình không còn như trước. Từ tháng 3/2010, ông bà sống ly thân đến tháng 4/2010 thì ông đưa đơn xin ly hôn. Nay ông yêu cầu tòa án giải quyết cho ông được ly hôn.

Về con chung, cháu V., 3 tuổi không phải là con chung của ông bà. Trong thời gian chung sống, ông bị bà B. lừa dối nhiều việc, kể cả việc sinh con. Theo ông T., trong thời gian sống chung, bà T. có mang thai nhưng đến tháng thứ 5 thì ông về Nhật. Trong thời gian này bà B. thông báo cho ông biết là đã sinh một đứa con trai. Do tưởng là con ruột của mình, sau đó ông về Việt Nam và làm giấy khai sinh cho cháu V.. Tuy nhiên, sau đó nghe người xung quanh bàn tán, ông nghi ngờ nên mới đi xét nghiệm ADN thì biết được cháu V. không phải là con ông. Cho rằng bị vợ mình lừa dối, ông T. nộp đơn ra tòa án xin được ly hôn. 

Quá trình giải quyết vụ án, bà B. khai vẫn còn thương ông T. nên mong muốn vợ chồng đoàn tụ và không đồng ý ly hôn. Về con chung, ban đầu bà B khai cháu V. là con của bà với ông T. do bà đẻ ra nhưng ông T. trưng ra giấy giám định ADN, cháu V. không phải là con ông. V. là con riêng của bà B. với người khác.

Theo trình bày của bà B., trong thời gian ông T. ở Việt Nam, bà có mang thai thật, nhưng đến tháng thứ 5 thì hư thai. Lúc này thì ông T. đang ở bên Nhật, vì mong mỏi có con để vui cửa vui nhà nên sau đó bà có ra trạm xá xin một đứa trẻ mới sinh về nuôi là cháu V. bây giờ. Theo bà, diễn tiến việc bà mang thai và xin cháu V. về nuôi ông T. đều biết, được chứng minh là việc ông T. đi làm giấy khai sinh cháu V. mang họ ông. Vì vậy, bà không đồng ý ly hôn nhưng nếu tòa chấp nhận yêu cầu của ông T. thì bà yêu cầu ông T. có nghĩa vụ cấp dưỡng một lần để nuôi cháu V. đến tuổi trưởng thành là 1 tỷ đồng.

Về phần tài sản, bà yêu cầu ông N. (em ruột ông T.) phải thanh toán giá trị xây dựng bà đã đầu tư xây dựng quán cà phê trên mảnh đất vợ chồng người này đứng tên, trị giá 115 lượng vàng.

Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, ông T. không đồng ý cấp dưỡng nuôi con vì cho rằng bà B. tự xin cháu bé về nuôi. Về nợ và tài sản chung trong thời gian sống chung với bà B., ông T. xác định không có. Riêng việc bà B. đòi yêu cầu thanh toán giá trị tài sản xây dựng trên thửa đất của em ông đứng tên trị giá 115 lượng vàng ông cho rằng đây là tài sản riêng của em ông nên ông không đồng ý. 

Xử sơ thẩm, TAND tỉnh Đồng Nai đã chấp nhận đơn xin ly hôn của ông N.V.T. đối với bà N.T.N.B. Về con chung, tài sản chung, nợ chung, Tòa xác định là không có nên không xem xét. Ngoài ra, Tòa cũng bác yêu cầu cấp dưỡng nuôi con của bà B. đối với ông T. cũng như yêu cầu phản tố của bà B., yêu cầu ông T. phải thanh toán trị giá nhà ở và quán cà phê xây dựng trên thửa đất của em ruột ông T.

Sau khi bản án sơ thẩm được tuyên, bà B. đã làm đơn kháng cáo toàn bộ bản án.
Tại phiên tòa phúc thẩm, HĐXX nhận định: Quan hệ vợ chồng của ông T. và bà B. không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên việc tòa án cấp sơ thẩm xử chấp nhận đơn xin ly hôn của ông T. là có cơ sở.

Về phần con chung, qua các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ và lời khai tại các phiên tòa, bà B. khai việc xin con nuôi cũng như thủ tục xin con nuôi không rõ ràng, không có cơ sở trong khi ông T. không thừa nhận, do đó tòa cũng bác luôn yêu cầu cấp dưỡng của bà B. Đối với yêu cầu phản tố của bà B. đòi 115 lượng vàng của bà B., Tòa cũng xác định là không có cơ sở. Từ đó, HĐXX đã bác toàn bộ đơn kháng cáo của bà B., giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm

A.Huy
.
.
.