Hành vi lôi kéo người khác sử dụng ma túy bị xử lý như thế nào?

Thứ Hai, 22/12/2014, 10:37
Hỏi: Xin hỏi Quý báo, những người có hành vi lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy bị pháp luật xử lý như thế nào?

Trả lời: Hành vi lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy có thể bị xử phạt hành chính theo Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 (có hiệu lực từ 28/12/2013), cụ thể là hành vi môi giới, giúp đỡ, tạo điều kiện hoặc bằng các hình thức khác giúp cho người khác sử dụng trái phép chất ma túy bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng (điểm b khoản 4 Điều 21); bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung là tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính.

Người nước ngoài có hành vi vi phạm thì tùy theo mức độ vi phạm có thể bị áp dụng hình thức xử phạt trục xuất khỏi Việt Nam. Nếu hành vi lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy có đủ yếu tố cấu thành tội phạm sẽ bị xử lý hình sự về “Tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy” (Điều 200 BLHS).

Theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 thì “cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy” là hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực hoặc các thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần của người khác để buộc họ phải sử dụng trái phép chất ma túy trái với ý muốn của họ. Còn “lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy” là hành vi rủ rê, dụ dỗ, xúi giục hoặc bằng các thủ đoạn khác nhằm khêu gợi sự ham muốn của người khác để họ sử dụng trái phép chất ma túy.

Điều 200 BLHS quy định 4 khung hình phạt, trong đó khung hình phạt thấp nhất là phạt tù từ 2 năm đến 7 năm (khoản 1) và khung hình phạt cao nhất là phạt tù 20 năm hoặc tù chung thân (khoản 4). Hình phạt bổ sung được quy định cho tội này là phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.

Trường hợp người cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy biết bản thân họ hoặc người khác đã nhiễm HIV mà cố ý lây truyền HIV cho người sử dụng chất ma túy thì cùng với việc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều 200 BLHS (điểm i khoản 2: “Gây bệnh nguy hiểm cho người khác”), người này còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “Tội lây truyền HIV cho người khác” (Điều 117 BLHS) hoặc “Tội cố ý truyền HIV cho người khác” (Điều 118 BLHS).

Công ty luật TNHH Đào Ngọc Lý
.
.
.