Hành vi cho vay nặng lãi bị xử lý như thế nào?

Thứ Bảy, 20/12/2014, 11:16
Hỏi: Vừa qua, tại một số địa phương xuất hiện tình trạng cho vay nặng lãi, sau đó dùng thủ đoạn ép buộc người vay tiền phải gán tài sản. Hành vi này sẽ bị xử lý như thế nào? (Hoàng Ngọc Hà, quận Lê Chân, TP Hải Phòng)

Trả lời: Vay và cho vay là hoạt động bình thường, không bị pháp luật ngăn cấm. Tuy nhiên, thời gian gần đây hiện tượng cho vay nặng lãi diễn ra ngày càng phổ biến và để lại nhiều hậu quả xấu. Khoản 1, Điều 476 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về mức lãi suất như sau: "Lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng". Theo đó, nếu lãi suất cho vay vượt quá 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng thì gọi là "cho vay nặng lãi".

Theo điểm d khoản 3 Điều 11 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt đối với hành vi cho vay nặng lãi: Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với hành vi cho vay tiền có cầm cố tài sản, nhưng lãi suất cho vay vượt quá 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm cho vay.

Tùy theo tính chất và mức độ của hành vi cho vay nặng lãi mà người có hành vi vi phạm có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Theo quy định tại Điều 163 Bộ luật Hình sự quy định về tội cho vay nặng lãi như sau:

1. Người nào cho vay với mức lãi suất cao hơn mức lãi suất cao nhất mà pháp luật quy định từ mười lần trở lên có tính chất chuyên bóc lột, thì bị phạt tiền từ một lần đến mười lần số tiền lãi hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến một năm.

2. Phạm tội thu lợi bất chính lớn thì bị phạt tù từ 6 tháng đến ba năm.

3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một đến năm lần số lợi bất chính, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

Trong trường hợp người cho vay nặng lãi, sau đó có hành vi dùng thủ đoạn ép buộc người vay tiền phải gán tài sản thì tùy theo từng trường hợp, tính chất, mức độ của hành vi vi phạm mà người có hành vi vi phạm có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 135 Bộ luật Hình sự về tội cưỡng đoạt tài sản. Tội cưỡng đoạt tài sản có khung hình phạt từ 1 năm đến 20 năm tù, tùy theo mức độ của hành vi vi phạm.

Công ty Luật TNHH Đào và Đồng nghiệp
.
.
.